GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỈNH ĐĂK NÔNG
Tỉnh Đắk Nông được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 2004 theo Nghị quyết số 22/2003/QH11 ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của tỉnh Đắk Lắk.

Vị trí địa lý:
Đắk Nông nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của vùng Tây Nguyên, đoạn cuối dãy Trường Sơn. Nằm trong vùng tọa độ từ 11°45 đến 12°50 vĩ độ bắc và từ 107°12 đến 108°07 kinh độ đông. Trung tâm tỉnh Đắk Nông là thành phố Gia Nghĩa nằm cách thành phố Buôn Ma Thuột với chiều dài 125 km theo đường quốc lộ 14, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250 km về phía Nam, cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 689 km về phía Bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 1358 km về phía Bắc, có vị trí địa lý:
- Phía Đông và phía Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk;
- Phía Tây giáp tỉnh Bình Phước và tỉnh Mondulkiri, Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài khoảng 141 km;
- Phía Nam và đông nam giáp tỉnh Lâm Đồng
Các điểm cực của tỉnh Đắk Nông:
Điểm cực Đông: xã Đăk Plao, huyện Đắk Glong
Điểm cực Tây: xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức
Điểm cực Nam: xã Hưng Bình, huyện Đắk R'lấp
Điểm cực Bắc: xã Ea Po, huyện Cư Jút.
Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có 2 cửa khẩu quốc tế với Vương quốc Campuchia là cửa khẩu Đăk Per thuộc huyện Đắk Mil và Bup'rang thuộc địa phận Tuy Đức.
Điều kiện tự nhiên
Đắk Nông nằm trọn trên cao nguyên M’Nông, với độ cao trung bình từ 600 mét đến 700 mét so với mặt nước biển, cao nhất là ở Tà Đùng với độ cao lên đến 1.982 mét. Nhìn chung địa hình Đắk Nông chạy dài và thấp dần từ đông sang tây. Địa hình đa dạng, phong phú và bị chia cắt mạnh, có sự xen kẽ giữa các núi cao, với các cao nguyên rộng lớn, dốc thoải, lượn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ các dải đồng bằng thấp trũng.
Khí hậu Đắk Nông chuyển tiếp giữa hai tiểu vùng khí hậu Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, chính vì vậy chế độ khí hậu mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng có sự nâng lên của địa hình nên có đặc trưng của khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng. Khí hậu phân hóa thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 4 đến hết tháng 11, tập trung trên 90% lượng mưa cả năm. Lượng mưa trung bình năm 2.513mm. Mùa khô từ tháng 12 đến hết tháng 3 năm sau, lượng mưa không đáng kể. Nhiệt độ trung bình năm 22–230C, nhiệt độ cao nhất 350C, thấp nhất 140C. Với điều kiện thời tiết này rất phù hợp với phát triển các cây trồng nhiệt đới lâu năm. Tuy nhiên khí hậu ở Đắk Nông cũng có những mặt bắt lợi là sự mất cân đối về lượng mưa trong năm và sự biến động lớn về biên độ nhiệt ngày đêm và theo mùa, nên yếu tố quyết định đến sản xuất và sinh hoạt là việc cấp nước, giữ nước và việc bố trí mùa vụ cây trồng.
Đắk Nông có mạng lưới sông suối, hồ, đập phân bố tương đối đều khắp, thuận lợi để khai thác nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng các công trình thủy điện. Đất đai Đắk Nông khá phong phú và đa dạng, được chia thành 5 nhóm đất chính gồm nhóm đất xám, đất đỏ bazan, còn lại là đất đen bồi tụ. Đất nông nghiệp chiếm 47% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó, đất trồng cây công nghiệp lâu năm chiếm phần lớn diện tích.
Hành chính
Tỉnh Đắk Nông có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 7 huyện với 71 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 6 phường, 5 thị trấn và 60 xã.
Lịch sử
Thời Pháp thuộc năm 1893, người Pháp toàn quyền cai trị vùng cao nguyên Trung phần, trong đó có khu vực nay là tỉnh Đắk Nông. Hệ thống hành chính thực dân tập trung ở Đăk Mil và Đăk Song. Trong thời gian từ năm 1912 đến năm 1936, tại khu vực cao nguyên M'Nông đã diễn ra cuộc khởi nghĩa lớn và quy mô kéo dài chống lại thực dân Pháp do thủ lĩnh người dân tộc M'Nông là N'trang Lơng lãnh đạo. Năm 1940, bên cạnh nhà tù Buôn Ma Thuột, Pháp cho xây dựng Ngục Đăk Mil (Nay thuộc huyện Đăk Mil).
Khu vực này năm 1946 thuộc Xứ Thượng Nam Đông Dương rồi đến năm 1950 thì gom vào Hoàng triều Cương thổ trước khi đơn vị này bị xóa bỏ năm 1955 dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Từ năm 1959, khu vực Nâm Nung trở thành khu căn cứ của lực lượng quân cách mạng.
Tháng 1 năm 1959, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập tỉnh Quảng Đức trên cơ sở tách gần như toàn bộ quận Đăk Song (trừ tổng Đăk Lao ở phía bắc) và một phần quận Lăk từ tỉnh Darlac (Đắk Lắk), cùng với một phần nhỏ tỉnh Phước Long và tỉnh Lâm Đồng. Tỉnh lị đặt tại Gia Nghĩa. Địa giới hành chính tỉnh Quảng Đức, về cơ bản giống như địa giới tỉnh Đắk Nông ngày nay (trừ huyện Cư Jút hiện nay khi đó thuộc quận Ban Mê Thuột của tỉnh Darlac), được chia làm 3 quận: Đức Lập, Kiến Đức, Khiêm Đức và khu hành chính Đức Xuyên. Tháng 12 năm 1960, Chính quyền Cách mạng cũng đã quyết định thành lập tỉnh Quảng Đức, giữa năm 1961, tỉnh Quảng Đức do khu VI trực tiếp chỉ đạo. Đầu năm 1962, Chính quyền Cách mạng quyết định giải thể tỉnh Quảng Đức, chuyển Đức Lập, Đức Xuyên nhập về tỉnh Đắk Lắk, Kiến Đức nhập về tỉnh Phước Long, Khiêm Đức nhập về tỉnh Lâm Đồng.
Sau ngày hai miền thống nhất, tháng 5 tháng 1975, tỉnh Quảng Đức được tái lập lại. Tháng 11 năm 1975, tỉnh Quảng Đức sáp nhập vào tỉnh Đắk Lắk. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 22/2003/QH11 chia tỉnh Đắk Lắk thành hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Khi tách ra, tỉnh Đắk Nông có 6 đơn vị hành chính gồm 6 huyện: Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Nông, Đắk R'lấp, Đắk Song, Krông Nô. Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Gia Nghĩa, huyện Đắk Nông.
Ngày 27 tháng 6 năm 2005, chia huyện Đắk Nông thành thị xã Gia Nghĩa (thị xã tỉnh lị tỉnh Đắk Nông) và huyện Đắk Glong.
Ngày 22 tháng 11 năm 2006, chia huyện Đắk R'lấp thành 2 huyện: Đắk R'lấp và Tuy Đức.
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, chuyển thị xã Gia Nghĩa thành thành phố Gia Nghĩa. Tỉnh Đắk Nông có 1 thành phố và 7 huyện như hiện nay.
Kinh tế
Trong năm 2024, UBND tỉnh đã chỉ đạo, điều hành thực hiện hoàn thành vượt và đạt 08/11 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra, 03 nhóm chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch đề ra nhưng có tăng trưởng khá.
Tốc độ tăng trưởng GRDP (giá so sánh 2010) năm 2024 đạt 4,87%, thấp hơn 1,68 điểm % so với kế hoạch (kế hoạch 6,55%). Trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp ước tăng 5,34%; Khu vực công nghiệp - xây dựng ước tăng 6,41%; Khu vực dịch vụ ước tăng 4,54%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm 3,88%. GRDP bình quân đầu người ước đạt 81,66 triệu đồng; cao hơn kế hoạch 12,81 triệu đồng. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 19.030 tỷ đồng, đạt 95% kế hoạch. Thu ngân sách nhà nước đạt 3.070 tỷ đồng, đạt 93% kế hoạch. Tỷ lệ nhựa hóa chung dự kiến đạt 72,5%, vượt kế hoạch; tỷ lệ đô thị hóa đạt 26,2%, thấp hơn kế hoạch 2,8 điểm %; Tỷ lệ đáp ứng cho diện tích có nhu cầu tưới dự kiến đạt 84%, đạt kế hoạch.
Công tác đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo đời sống nhân dân, các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, môi trường, cải cách hành chính, chuyển đổi số, phòng chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được quan tâm chỉ đạo và có những chuyển biến tích cực; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững…
Giáo dục
Tính đến năm học 2023-2024, tỉnh Đắk Nông có 370 cơ sở giáo dục, trong đó 204/317 trường đạt chuẩn quốc gia. Cụ thể: Giáo dục mầm non: 126 trường; Tiểu học: 119 trường; Trung học cơ sở (THCS): 79 trường; Trung học phổ thông (THPT): 33 trường; Giáo dục thường xuyên (GDTX): 8 trung tâm; Giáo dục hòa nhập: 2 trung tâm, trong đó 1 trung tâm tư thục.
Y tế
Đến năm 2024, tổng nhân lực y tế trên toàn tỉnh có 2.179 CBCCVC, trong đó, có 511 người có trình độ chuyên môn bác sĩ. Cụ thể, bác sĩ đại học 349 người, bác sĩ CKI và Thạc sĩ là 149 người; bác sĩ CKII và Tiến sĩ có 11 người; dược sĩ đại học 79 người và dược sĩ CKI 13 người.
Chất lượng KCB tại các cơ sở y tế ngày càng cải thiện, nâng cao. Các cơ sở KCB công lập tiếp tục được quan tâm đầu tư, số giường bệnh tăng từ 1.155 (năm 2018) lên 1.430 (năm 2024). Công suất sử dụng giường bệnh đạt từ 77% (năm 2004) lên 87,6% (năm 2019). Riêng năm 2020 và năm 2021 do ảnh hưởng dịch COVID-19, công suất sử dụng giường bệnh giảm còn 71% (năm 2020) và 54,9% (năm 2023). Đến năm 2024, công suất sử dụng giường bệnh trung bình đạt 63,7%. 100% các Trạm Y tế có đủ dụng cụ thông thường phù hợp với trình độ chuyên môn và theo phân tuyến kỹ thuật để phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu; 100% trạm Y tế ứng dụng CNTT, đáp ứng yêu cầu KCB và thông tin báo cáo hàng ngày.
Đạt 20,6 giường bệnh/vạn dân; đạt 8,7 bác sỹ/vạn dân; tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,75%.
Diện tích và Dân số theo số liệu thống kê năm 2024
Tỉnh Đắk Nông có diện tích tự nhiên là 6.509 km².
Dân số trung bình năm 2024 trên địa bàn tỉnh ước tính là 695.685 người, tăng 2,01% so với năm 2023. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2024 là 395.452 người, chiếm 56,84% dân số tỉnh, tăng 0,08% so với năm 2023.
Về cơ cấu dân số, Đắk Nông có khoảng 227.000 người thuộc các dân tộc thiểu số, chiếm hơn 32% tổng dân số toàn tỉnh.
Văn hóa
Đăk Nông là vùng đất sinh sống từ hàng ngàn đời của đồng bào các dân tộc tại chỗ, đồng thời cũng là vùng đất quần tụ của cư dân từ nhiều vùng miền về sinh cơ, lập nghiệp nên đời sống tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng cũng vô cùng phong phú.
Ngoài ra, đồng bào các dân tộc Đăk Nông còn có rất nhiều tín ngưỡng để tôn thờ, đặc biệt là đồng bào các dân tộc tại chỗ thờ cúng Yàng (Trời), thần Núi, thần Sông v.v. và rất nhiều lễ hội như: Lễ hội Đâm trâu (ăn trâu). Lễ mừng nhà mới, Lễ mừng mùa, Lễ bỏ mả .v.v. phong phú và đặc sắc.
Giao thông
Có Quốc lộ 14, Quốc lộ 14C, Quốc lộ 28 đi qua.
BBT